TÂM LINH, TINH THẦN & QUYỀN NĂNG

Tâm Linh, Tinh Thần
 Quyền Năng

 

A. Tổng Quát
Thông Linh học – Spiritualism
Nghiên cứu Tâm linh
B. Quyền Năng
Hai Loại Cao và Thấp
Sự Nhậy Cảm Tâm Linh
Quyền Năng và Tâm Thức
Khai Mở Quyền Năng
Viễn Cảm và Linh Thị
Hình Ảnh cõi Trung Giới
Để Tránh Mê Hoặc
Kết

 

 Tổng Quát

Chữ ‘tâm linh - psychic’ và ‘tinh thần - spiritual’ giống và khác nhau ra sao ? Đôi khi hai chữ này được dùng hoán chuyển cho nhau và được hiểu theo một nghĩa chung rộng rãi, chỉ những điều bí ẩn, vô hình bên ngoài cõi hữu hình. Dầu vậy, đúng ra hai chữ có nghĩa khác nhau, chỉ những điều khác hẳn mà ta không nên lầm lộn.
Chữ ‘tâm linh’ thường được dùng để nói về tính chất và hiện tượng ở cõi tình cảm (trung giới), và chữ ‘tinh thần’ chỉ tính chất và sự việc ở những cõi cao hơn như cõi Bồ đề, với khác biệt là cõi tinh thần không có hiện tượng. Theo bà Blavatsky, hiện tượng tâm linh và nói chung những gì liên quan đến tâm linh là điều nên tránh, vì cõi tình cảm được xem là cõi huyễn hoặc, mộng ảo, không thật, gây lầm lạc cho người. Những quyền năng liên quan đến cõi này cũng không được khuyến khích, thí dụ thông nhãn, thông nhĩ. Nó không đáng được ham muốn vì cõi tình cảm do ở kế tiếp cõi trần nên cũng đầy phàm tính và xấu. Tâm linh tự nó không có gì là tinh thần, nhãn quan tâm linh ở cõi trần và cõi tình cảm không có tính tinh thần, và được ví như khi ta đi vào gian phòng thắp đèn sáng, thấy mọi vật ở đó nhờ ánh sáng nhân tạo từ bên ngoài. Khi đèn tắt, hình ảnh mất đi ta không còn thấy gì nữa. Ngược lại nhãn quan tinh thần thấy nhờ vào ánh sáng tự bên trong người, có thể tự mình thấy rõ ràng mọi vật bên ngoài không nhờ cậy vào điều gì khác. Ai dùng nhãn quan tâm linh nhìn bằng ánh sáng bên ngoài, và hình ảnh nhuộm mầu theo tính
chất của nguồn sáng ấy. Điều quan trọng cần nhớ là luôn luôn còn có phần tinh thần bên ngoài phần vật chất.
Tiếp đây là giải thích cho thấy tâm linh và tinh thần là hai tính chất và hai cõi khác hẳn nhau. Bà Blavatsky, huyền bí gia tài giỏi của thế kỷ 19 viết rằng ai có thông nhãn mà được cơ hội ngồi cạnh một nhà Yogi tự ý xuất thần, và một người đồng mê man do ảnh hưởng bên ngoài, sẽ học được bài học quan trọng trong huyền bí học.
Ngoài thể xác, ta biết con người còn có những thể thanh gọi là hào quang, và hào quang thể tình cảm, hào quang thể trí có mầu sắc tương ứng với tính chất của người. Cả hai nhân vật, nhà Yogi và người đồng nhìn bề ngoài giống nhau, là cùng tạm thời không còn ý thức ở cõi trần. Trong trạng thái ấy, hào quang của nhà Yogi thay đổi hẳn, bẩy sắc chính không còn thấy rõ, và sự kiện cũng giống vậy khi ta ngủ. Những mầu chỉ về đặc tính tinh thần nơi một ai (như mầu vàng chỉ Bồ đề tâm, mầu xanh đậm chỉ Thượng trí v.v.) sẽ hoặc rất khó nhận ra hoặc mất hẳn. Lý do là con người thật được tự do trong lúc ngủ và sống, sinh hoạt nơi những cõi khác, khoác lấy những gì cao cả nhất nơi người họ. Đời sống này là thực tại cho con người thật dù khi thức dậy, não bộ nơi cõi trần mộng ảo sẽ gọi đó là giấc mơ.
Vậy thì nơi nhà Yogi chủ ý xuất thần, những mầu đỏ, lục, xanh dương trong hào quang biến mất, không còn thấy gì cả mà chỉ còn lại mầu vàng của Prana rung động yếu ớt gần như không nhận ra được. Hình ảnh có nghĩa nhà Yogi nay linh hoạt trong thể Thượng trí ở các cõi tinh thần. Ngược lại, nơi người đồng hay ai mà việc xuất thần là do kẻ khác tạo nên cho họ tức không chủ ý, không phải do tà thuật mà cũng không do bậc đạo sư sinh ra, trọn các thể vẫn còn đó ở cõi tâm linh, với Thượng trí bị tê liệt. Bồ đề tâm tách rời khỏi Thượng trí do sự tê liệt ấy, còn thể tình cảm hoàn toàn chịu sự chi phối của hạ trí và dục vọng.
Tâm linh được xem là kama–manas, hay tình cảm có ảnh hưởng của lý trí phần nào, và là chất liệu mà ham muốn và cảm xúc dùng để biểu lộ. Nhìn theo chiều tiến hóa, con người bị giam cầm trong tâm linh và trí não, mà chỉ bằng cách kiểm soát và làm chủ hai điều sau mới có được giải thoát và hòa hợp với linh hồn. Ta kinh nghiệm sự hòa hợp này trong thể xác ở cõi trần, là cõi đậm đặc thô trược nhất, bằng việc làm chủ bản tính thấp một cách thông minh và có ý thức.
Tiếp đây ta bàn sơ qua về hai sinh hoạt đậm nét tâm linh.

● Thông Linh học – Spiritualism

Hoạt động nổi bật nhất của phong trào Thông Linh học là các buổi cầu hồn, và gần đây hơn là những nghiên cứu về đời sống sau khi chết. Nói về điều sau thì đối với ai muốn áp dụng hiểu biết về MTTL có vài khía cạnh về đời sống sau khi chết cần được xem xét kỹ.
Ta được dạy rằng các ‘tình trạng’ hay cảnh ngộ ta đang sống là giai đoạn tương ứng với cái ngã, hay những tính chất của cái ngã trong ta mà ta cần nhận biết để có thể học và hiểu về mình nhiều hơn. Chúng là tấm gương phản chiếu lại ‘cái tôi’. Khi chúng ta học hết những gì có thể học trong đời, và đã cho chúng hết tất cả những gì ta có thể cho thì những cảnh ngộ ấy chấm dứt, hay ta bước sang cảnh ngộ khác, cũng là đồng nghĩa. Như thế khi ai qua đời, nói theo mặt tinh thần chuyện có nghĩa hoặc con người hoặc cảnh ngộ tạm thời không còn gì để dạy, để học do mối liên hệ. Ta có thể tưởng không phải vậy, nhưng sự kiện ‘cái ngã’ ngủ một giấc dài (cái chết) là bằng chứng rằng chu kỳ của nó đã xong.
Lời khuyên của huyền bí gia chân chính là ‘Làm xong rồi Đi’, có nghĩa ‘Rời bước’. Bởi nói cho sát, vào lúc này việc gì xẩy ra sau khi chết không phải là chuyện của ta. Ta đang có mặt ở đây là để sống, sống với những tình trạng mà tự mình đã tạo ra, và tìm cách vượt qua chúng bằng cách học trọn vẹn bài học, và dùng nó để làm cho mình toàn thiện hơn. Đó là ý nghĩa lời dạy trong kinh thánh ‘Trả lại cho Cesar những gì của Cesar’.
Khi công việc này xong, ta sang qua những kinh nghiệm mới mà chúng sẽ chịu ảnh hưởng của tư tưởng, hành động, tình cảm mà ta dùng ở cõi trần. Bởi không ai sống đời giống hệt nhau trên trần, chi tiết về lối sống của ai khác sau khi chết không nhất thiết có ích gì cho ta. Hơn thế nữa, chuyện thấy rõ là khi ta đi ngược lại và tìm cách nối liên lạc với ai đã ‘chết’ với chúng ta, thì giản dị ấy là sự từ chối không chịu buông bỏ cho người kia đi theo đường của họ, theo luật tiến hóa là luôn luôn tiến tới, theo đuổi mục tiêu.
Người đã khuất đối với ta vào lúc này trở thành ‘quá khứ’, chuyện đã qua, hay phải là vậy và theo cùng nghĩa, ta cũng là ‘quá khứ’ đối với họ. Họ đã sang một thế giới có những kinh nghiệm khác, sang một tình trạng tâm thức rất khác lạ với cõi trần (bốn chiều đo). Vì vậy, khi tìm cách kéo họ trở xuống cảnh vật chất đậm đặc (ba chiều đo), và liên kết họ với đời riêng và những vấn đề cá nhân của ta, thì ấy là chuyện tệ cho họ mà luôn cả cho ta, bởi như thế là đi ngược trở lại, trái với luật thiêng liêng. Họ có thể không ý thức sự việc, cũng như ai muốn gọi họ về, nhưng trong trường hợp này và ở những cảnh ngộ khác thì câu sau áp dụng như nhau: ‘Không biết luật không phải là cớ để biện minh’.
Lại nữa, ý cho rằng người đã qua bên kia có thể trở thành sáng suốt hơn, có hiểu biết nhiều hơn, cũng dựa trên sự hiểu lầm về cách sự sống diễn ra, là luôn suông sẻ bước này sau bước nọ mà không có nhẩy vọt. Ai qua đời vẫn là họ, tình cảm, mức trí tuệ, cá tánh vẫn thế không thay đổi, chỉ có thân xác là không còn mà thôi. Lại nữa tâm thức của người đã sang cõi thanh sinh hoạt trong cảnh giới có bốn chiều đo, nên nói đúng ra ta không thể mong họ vẫn có thể khôn khéo với chuyện cõi trần ba chiều đo, như ta khôn khéo với trí tuệ trong đời. Đáng nói hơn nữa là khi việc liên lạc có được qua trung gian là một người đồng, thì ý gì người bên kia muốn truyền đạt sẽ nhiều phần bị sai lệch, vì nó phải đi qua một cái trí khác để được biểu lộ thành lời.
Buổi cầu hồn còn có thể đưa ra chỉ dạy nói rằng của nhân vật này hay kia. Điều ấy có thể đúng mà cũng có thể không đúng, sao đi nữa, chấp nhận lời dạy và tin nó có ‘thẩm quyền’ thì thực sự không giúp cho ta phát triển ý thức trách nhiệm, và những tính chất cao hơn của trí tuệ là điều ta nhắm tới.
Nay sang cầu hồn thì người đồng thấy gì khi mê man, hay khi biểu lộ khả năng thông nhãn và thông nhĩ ? Dưới đây là vài chuyện có thể xẩy ra.
1. Họ mô tả ao ước của người dự hay của nhóm người dự. Ước muốn này có hình dạng tùy theo sức mạnh của lòng khao khát không được biểu lộ hay khả năng trí tuệ của người hay nhóm người liên hệ.
2. Người đồng thấy các hình tư tưởng trong hào quang của người dự. Những hình tư tưởng này đã được tạo từ lâu, và thường là của ai đó hoặc rất được thương yêu, hoặc ghét cay ghét đắng. Chúng thường có hình dạng rất thực mà khi người đồng mô tả lại thì người ta nhận ra ngay, cùng lúc người đồng có thể do viễn cảm (qua huyệt đan điền - solar plexus) biết được những chuyện mà người dự muốn được nghe tương hợp với cử chỉ, lời nói và tư tưởng của thân nhân đã khuất hay bạn hữu còn sống. Điều này giải thích những lời tầm thường mà người đồng hay thốt ra hoặc lời chuyển lại ở buổi cầu hồn, nó chỉ giản dị là phản ảnh tính chất của người dự. Người trung bình dự buổi cầu hồn ít khi thuộc giới có trí thông minh cao nhất, trừ phi họ tới để xem xét.
3. Có vài trường hợp hiếm khi linh hồn trên đường tái sinh, hay khi vừa qua đời có thúc đẩy (với mục đích tốt lành) muốn tiếp xúc với thân nhân hay bạn hữu qua người đồng. Trong những trường hợp ấy người dự, người đồng và người muốn truyền tin thường có trình độ cao hơn trung bình. Dù vậy, đây là các ngoại lệ.
4. Người đồng mô tả lại điều họ cảm nhận bằng thông nhãn và thông nhĩ. Đây là hiện tượng ở cõi trung giới song song với chuyện cõi trần, và bị tính chất và mức tiến hóa cao hay thấp của nhóm người dự chi phối. Người đồng diễn giải lại cho họ nghe và thường là họ nhận biết ấy là điều chi.
Ta không nghi ngờ gì lòng thành thật của người đồng có thông nhãn và thông nhĩ bẩm sinh, tính chân thật của sự việc, mà chỉ vạch ra rằng hiện tượng mà họ tiếp xúc có tính chất của cõi trung giới, và khi nhìn vào buổi cầu hồn theo quan điểm của người có quyền năng tâm linh cao, người ta sẽ thấy chung quanh mỗi người dự là một nhóm hình ở cõi trung giới - do chính đương sự tạo ra - của những ai đã qua đời hay ai vẫn còn sống mà thường xuyên có trong tâm tưởng đương sự, có liên quan với chuyện nhà của họ, chuyện làm ăn, hay sức khỏe.
Người nhậy cảm bắt được những chuyện này, liên kết chúng với hình tư tưởng của người dự, và từ đó cho kết quả hay thấy trong những buổi cầu hồn với khách có trình độ trung bình. Người đồng mô tả đúng đắn, chính xác những gì họ thấy và nghe, tức chân tình và nói thực, nhưng vì họ không được luyện để diễn giải và phân biệt giữa điều chân với điều giả, nên hiển nhiên là không thể làm gì hơn ngoài việc thuật lại những gì đã thấy và nghe.
Có một chuyện vui liên quan đến sự kiện đó. Tác giả Phoebe Bendit mà PST đã trích đăng nhiều bài, có thông nhãn và tìm hiểu nhiều về hiện tượng cầu hồn. Bà tham dự các buổi ấy và sau khi quan sát diễn biến, cho ban tổ chức hay là việc tìm hiểu này không chính xác, vì người ta có thể ảnh hưởng kết quả lẫn người đồng. Họ không tin, sau đó trong buổi cầu hồn mà bà tham dự, người đồng cho biết họ thấy hình ảnh một ông, ông bảo là chồng đã khuất của một khách hiện diện và muốn nói chuyện cùng bà. Họ chuyển lại lời nhắn, và quả thật một bà khách mang tên như vậy có mặt hôm ấy.
Sau buổi cầu hồn, bà P. Bendit nói rằng ‘vong linh’ người đàn ông mà bà đồng thấy, chỉ là hình tư tưởng do bà tạo nên, và bà khách được nêu tên thì cho biết mình độc thân, chưa hề lập gia đình với ai, và lời nhắn đưa ra thì không ứng với điều gì cả. Ban tổ chức bèn yêu cầu bà P. Bendit đừng can dự theo cách ấy nữa !

● Nghiên cứu Tâm linh

Loại nghiên cứu hay thấy là việc tìm hiểu về kiếp trước; câu hỏi là làm vậy có mục đích hữu dụng nào, bởi quá khứ đã xong không thể thay đổi, ảnh hưởng gì được nữa, và chỉ những hiểu biết hữu ích cho sinh hoạt hiện thời của ta, để làm phát triển nhận thức tinh thần, là có thể nói có lợi thật sự, vì ta có thể dùng chúng để tạo dựng tương lai.
Ý muốn biết về quá khứ không chừng do lòng tự cao tự đại khoe mình, có ước ao thầm kín muốn chứng tỏ rằng kiếp này tuy một người không có gì trội hơn ai nhưng kiếp trước họ khác; và việc nghiên cứu mong tìm vinh quang hay chuyện lạ lùng khi xưa, thực ra chỉ là để bù lại mặc cảm họ có đời tầm thường kiếp này. Và ý muốn đi ngược thời gian truy lại chuyện xưa, còn có khi sinh ra vì người ta muốn trốn tránh thực tại khó khăn, biết mình không thể đương đầu với nó.
Một sinh hoạt khác của các nhóm nghiên cứu tâm linh là tập mở quyền năng ở cõi vô hình, hay là học cách tạo hiện tượng. Mà những khả năng ấy có giúp làm nâng tâm thức lên mức cao hơn và thành đáng quí hơn không ? Và liệu việc sở đắc quyền năng tâm linh có thực sự là một bước tiến về mặt tinh thần ? khi ta biết rằng loài vật và người bán khai cũng có những khả năng như thông nhãn, thông nhĩ.
Về đề tài này, ở đây ta nên nhắc tới lời nói rằng thường khi ai có khả năng tâm linh mà đến xin học với một bậc thầy chân chính, họ bị đòi hỏi phải từ bỏ chúng trước khi được nhận vào học. Chuyện muốn nói là những quyền năng ấy thuộc về quá khứ, có liên hệ với giai đoạn tiến hóa khi xưa của nhân loại hơn là hiện tại; và không chừng chúng lại còn là tàn tích của những quyền năng có được do luyện theo tà thuật. Nếu đúng vậy thì việc thụ đắc các khả năng ấy chắc chắn không muốn nói chủ nhân có mức tiến hóa cao như họ tưởng. Tuy nhiên, cách tốt nhất để biết giá trị của bất cứ việc làm gì là ta hãy phân tích động lực dẫn tới việc ấy.
Tại sao người ta muốn có quyền năng tâm linh ? Ý tập luyện để có được khả năng siêu hình có thể do động lực ích kỷ, chia rẽ thúc đẩy. Khi động lực không thanh khiết thì có nguy hiểm, và nguy hiểm càng lớn hơn nữa nơi cõi trung giới là cõi ảo ảnh, huyễn mộng. Ở nơi đó, các lực đen tối tác động dễ hơn lên trí não của ai không phòng bị, không biết tự bảo vệ mình đối với ảnh hưởng từ cõi này mà muốn đi vào chỗ ấy. Ấy là những suy nghĩ ở cõi trần mà mỗi người nên tự trả lời.
Càng nói ta càng thấy cách bảo vệ thật sự duy nhất khi có sinh hoạt tâm linh, là tạo cho mình có hiểu biết sâu rộng về luật trời và luyện tập để làm chủ các cõi, từ vật chất đến tinh thần. Bởi luật chung là muốn dùng thành thạo một khả năng gì, người ta phải hiểu và điều khiển nó từ cõi cao hơn. Thí dụ rõ ràng nhất là ta được khuyên phát triển trực giác để hướng dẫn trí thông minh. Bằng không, luôn luôn có nguy hiểm là cái ‘thấp hơn’ sẽ làm chủ.
Thực tại là ta ít khi thấy ai có thể dùng cái trí tinh thần để điều khiển quyền năng tâm linh của họ, nhiều phần là quyền năng này làm chủ ai có nó, thể hiện hay không tùy tình trạng mà không do ý muốn của người, như người đồng mê man cho ai khác nhập vào họ. Đây là điểm hết sức quan trọng về mặt huyền bí học mà ta nên lưu tâm. Chuyện có liên hệ đến tâm thức, và có sự khác biệt lớn lao giữa việc thức tỉnh hoàn toàn hay mê man khi dùng khả năng tâm linh. Thí dụ khi không thức tỉnh hoàn toàn ở mức cao hơn thực thể nhập vào họ, thì làm sao người đồng có thể nói đó là ai ? Vong linh muốn dối gạt sẽ dễ dàng tạo hiện tượng cho mục đích ấy, và chỉ có ánh sáng của Chân ngã mới giúp người ta phân biệt được chân và giả.

B. Quyền Năng
Hai Loại Cao và Thấp

Ta nên phân biệt rằng việc tìm hiểu quyền năng là gì, cách kiểm soát chúng mà không phải để chúng làm chủ ta, và cách dùng chúng để phụng sự, làm việc với Thiên đoàn, là chuyện có giá trị; nhưng ta phải xem chúng như là dụng cụ, phương tiện, và thuộc về mặt hình thể, mà không phải là mục đích cho ta hướng về. Ta cần nhận biết quyền năng là tính chất của hình thể, sắc tướng, bằng không chúng được gán cho tầm quan trọng không xứng, làm ta chú tâm quá độ, và thành chướng ngại cho sự phát triển tinh thần.
Quyền năng có được do năm cách thuộc năm cõi tiến hóa của người, ấy là:
a– dùng phương pháp ở cõi trần,
b– dùng thuốc để xuất vía,
c– dùng chú ngữ là phương pháp ở cõi trí,
d– thăng hoa ước vọng hay nâng tâm thức lên cõi Bồ đề, là cõi của tình thương tinh thần.
e– nhờ tham thiền, đạt tới cõi cao hơn nữa là cõi của ý chí tinh thần
và thuộc hai loại cao và thấp. Trong năm cách này, ta ghi nhận là giống như ước vọng nồng nhiệt thuộc loại tinh thần là sự thăng hoa của tình cảm ham muốn, thì tham thiền mà các vị tiến hóa thực hành là sự thăng hoa của tất cả những hoạt động trí tuệ. Vì thế hai phương pháp sau (d và e) dùng để khai mở quyền năng chỉ áp dụng cho các bậc đạo đồ initiate, vì chúng tổng hợp và thăng hoa những thành quả đạt được ở cõi tình cảm và cõi trí.
Nhận xét thì ta thấy rằng phương pháp ở cõi trần (a), thăng hoa ước vọng (b), và tham thiền (e) là ba cách được phép, và là những cách duy nhất mà ai đi tìm chân lý được cho luyện tập; còn dùng thuốc và chú ngữ là phương tiện của tà đạo và liên quan đến những quyền năng thấp.
Điểm lý thú khác là nguyên nhân đầu tiên làm khai mở quyền năng tinh thần dù cao hay thấp, là vòng tái sinh. Không phải ai cũng đã tới mức cho phép họ khai mở quyền năng của linh hồn. Phần linh hồn hay Chân ngã vẫn còn chưa thức tỉnh nơi nhiều người, vì trọn kinh nghiệm và sự phát triển của phàm ngã chưa hoàn tất. Người ta phải trải qua nhiều kiếp sống trước khi phàm ngã được kiện toàn, cho phép Chân ngã thể hiện qua đó. Lại nữa, cũng nên nhắc lại việc thụ đắc những quyền năng thấp (thông nhãn, thông nhĩ v.v.) trong nhiều trường hợp đó là dấu hiệu của mức tiến hóa thấp, muốn nói ai sở hữu chúng có liên hệ gần gũi với thú tính. Điều này phải được vượt qua trước khi có thể phát triển quyền năng cao.
Ta cũng không cần phải nói là việc dùng rượu, ma túy có thể làm xuất vía, chúng thuần túy thuộc cõi trung giới mà người thực sự theo chánh đạo cần tránh biệt. Đó là những cách phát triển theo tà đạo.
Có phân biệt:
– Quyền năng thấp được gọi là quyền năng tâm linh (psychic powers).
Là kết quả của việc con người tiếp xúc được với phần tâm linh của các vật trong thế giới.
– Quyền năng cao được gọi là quyền năng tinh thần (spiritual powers).
Là kết quả của việc phát triển tâm thức nhóm. Chúng chẳng những gồm luôn các quyền năng thấp, mà còn khiến con người tiếp xúc với sự hiện hữu và những hình thái của sự sống trong hai cõi tinh thần bên ngoài ba cõi thấp. Nói tổng quát thì những quyền năng này là như sau:
– Hiểu biết trực tiếp
– Cảm nhận trực giác, đáp ứng với ý tưởng đưa ra hay nhận biết.
– Nhận thức tinh thần
– Cái nhìn thuần khiết
– Minh triết
Quyền năng cao không phải chỉ gồm những điều ghi trên, mà có thể kể thêm những khả năng tiềm ẩn trong Chân ngã phải được phát triển trong mỗi người, nếu ta muốn đóng góp, làm phần của mình, làm việc với Thiên đoàn Hierachy để phụng sự thế giới. Ghi vắn tắt thì chúng còn là:
– Nhậy cảm với ấn tượng mà Thiên đoàn có thể tìm cách gây ra cho trí não người chí nguyện.
– Đáp ứng mau lẹ với nhu cầu thực. Đây không phải là phản ứng tình cảm từ huyện đan điền, mà do hiểu biết trong tâm. Có sự phân biệt giữa hai điều này.
– Nhận biết đúng đắn về thực tại nơi cõi tinh thần. Điều này có được nhờ tham thiền, nó dẫn tới việc có nhận thức trí tuệ đúng đắn, thoát khỏi huyễn mộng, ảo tưởng và làm soi sáng não bộ.
– Hiểu biết thực sự về yếu tố thời gian, với chu kỳ khi lên khi xuống, và thời điểm thích hợp để có hành động, đây là quyền năng tâm linh khó nhất để thủ đắc, nhưng có thể tập thông thạo được với lòng kiên nhẫn. Sẵn đây ta nên biết thêm là mọi việc làm ở cõi cao đều tuân theo luật chu kỳ, và các đấng cao cả làm việc theo chu kỳ để không phung phí lực.
Quyền năng cao khác với quyền năng thấp ở điểm chúng loại bỏ cái sau qua bên. Những quyền năng thấp bị xem là chướng ngại cho sự nhận thức tinh thần ở mức cao nhất, tuy chúng là huyền thuật magic nơi cõi thấp. Những quyền năng cao này bao gồm nhau, và được nhận biết do sự chính xác và không sai lầm của chúng khi được dùng đúng cách. Chúng cho ra kết quả tức khắc như tia chớp, và nhìn sự việc theo cái nhìn tinh thần vĩnh cửu. Trong khi đó các quyền năng thấp có thể bị sai lầm, mức áp dụng của chúng có giới hạn, và diễn giải sự việc theo thứ tự thời gian. Vì vậy các diễn giải này là một phần của ảo ảnh to lớn, là đặc tính của cõi trung giới; đối với người chí nguyện chân chính các quyền năng thấp là một giới hạn cho họ.
Ta không bị đòi hỏi phải phát triển tất cả chúng cùng một lúc, chúng được ghi ra để cho khái niệm về việc phải làm, và về lâu về dài người chí nguyện phải sở đắc hết tất cả, tuy rằng tiến trình nhất thiết phải chậm chạp.
Đôi khi việc có khả năng tâm linh thấp (thông nhãn, thông nhĩ v.v.) và do vậy có kinh nghiệm ở cõi trung giới, muốn nói linh hồn còn say ngủ (chưa thức tỉnh theo quan điểm cõi trần) và không thể dùng vận cụ của nó, do đó những kinh nghiệm này chỉ là kết quả của việc huyệt đan điền (hay tùng thái dương, solar plexus) hoạt động mạnh, làm con người ý thức chuyện cõi trung giới. Loại khả năng tâm linh này có khi muốn nói là việc trở ngược về tình trạng như ở thú vật và giai đoạn trẻ thơ của loài người, nên bất hảo và nguy hiểm. Chuyện hóa phức tạp khi người ta có thể làm chủ quan năng này và dùng nó để phụng sự như các vị C.W. Leadbeater, G. Hodson, ấy lại là chuyện khác.
Khả năng tâm linh thấp làm người ta ý thức và đáp ứng lại với hiện tượng ở cõi trung giới, chuyện huyễn hoặc ở đó. Loại khả năng này hay thấy trong các buổi cầu hồn, và cũng có thể giải thích được việc có nhiều người hướng dẫn ở cõi bên kia là người da đỏ. Ấy là các ‘vỏ’ và hình tư tưởng mạnh mẽ còn sót lại từ thời giống dân thứ tư Atlantis. Nhắc lại thì trong ba giống dân có thân xác hữu hình là Lemuria, Atlantis và Aryan, giống dân Lemuria xưa nhất và Aryan trẻ nhất. Vào lúc này không còn sót lại ‘vỏ’ và hình tư tưởng thời Lemuria bởi đã quá xưa, và vẫn còn nhiều ‘vỏ’ thời Atlantis còn được duy trì nhờ cách dùng huyền thuật thời đó.
Như đã nói ở trên, dù cao hay thấp cả hai loại khả năng đều bị xem là chướng ngại vật cho trạng thái tinh thần cao nhất, và ai muốn được tự do hoạt động vượt qua ba cõi thấp (cõi trần, trung giới và cõi trí) phải bỏ lại chúng sau lưng. Ai mới bước vào đường Đạo có thể thấy đây là chuyện khó khăn. Họ tưởng việc có thông nhãn hay thông nhĩ muốn nói có tiến bộ tinh thần, và là dấu hiệu việc tham thiền bắt đầu có hiệu quả. Nhưng nó có thể chứng tỏ điều ngược lại và sẽ đúng là vậy, nếu người chí nguyện để cho mình bị lôi cuốn hay ràng buộc vào bất cứ quyền năng tâm linh nào.

Sự Nhậy Cảm Tâm Linh

Tới một lúc nào đó, do luyện tập, tham thiền, người ta gia tăng mức nhậy cảm tâm linh dẫn tới việc có quyền năng, ấy là một sự tăng trưởng mà cũng là một thử thách. Họ dễ bị vẻ hào nhoáng của quyền năng tâm linh quyến rũ; bị lôi cuốn làm đi sai đường khi thay vì chuyên tâm để làm việc cho nhân loại, họ lại khai thác quyền năng tâm linh và dùng chúng để nhấn mạnh đến cái tôi.
Con người phải làm nẩy nở mọi phần của mình, nhưng khi chưa thể sống như là Chân ngã, với phần tâm linh có ý thức đi cùng với trí tuệ, thì các quyền năng thấp phải nằm yên. Chỉ những ai đã tiến đến mức nào đó mới sử dụng chúng an toàn, khi ấy chúng là vũ khí và dụng cụ cho việc phụng sự trong ba cõi, bởi những ai vẫn còn bị luật Tái Sinh ràng buộc vào các nơi này.
Mặt khác, những ai đã đạt sự giải thoát không còn cần phải dùng những quyền năng cố hữu ở ba cõi thấp. Các vị ấy có thể dùng hiểu biết không sai lầm là trực giác, và sự chiếu rọi của Sự Sáng.
Thuật đồng cốt mediumship và việc gợi hứng tương tự nhau mà cách thức khác nhau. Sự gợi hứng xẩy ra ở cõi tinh thần của linh hồn, dùng cái trí làm phương tiện để truyền xuống não bộ điều mà linh hồn biết. Còn thuật đồng cốt là diễn biến hoàn toàn xẩy ra ở cõi trung giới. Thuật đồng cốt nguy hiểm vì thể trí không can dự vào diễn tiến và do đó linh hồn không làm chủ. Ngưởi đồng là dụng cụ vô thức, họ không phải là tác nhân làm chủ, họ bị kiểm soát và không phải là chính họ. Thường thường những vong linh dùng cách liên lạc này, dùng não bộ và giọng nói của người đồng thuộc loại chưa tiến hóa cao và không thể dùng cách ở cõi trí.
Việc gợi hứng phát xuất ở những cõi cao hơn và diễn ra nơi ai có mức tiến hóa rất cao, vì nó dùng tâm thức Chân ngã và do đó an toàn. Điểm nên nhớ là linh hồn luôn tốt lành, nó có thể thiếu hiểu biết trong ba cõi thấp và thiếu sót về mặt ấy, nhưng nó không có điều ác. Sự gợi hứng luôn an toàn trong khi thuật đồng cốt phải luôn luôn tránh.
Một điểm cũng nên nhắc đến sơ qua là vài người có tính nhậy cảm tâm linh, bắt được cảm xúc của người khác dễ dàng, hòa vào những lo lắng, khổ não của họ làm chính mình bị rối loạn theo. Để chuyển hóa thì một cách là vun trồng khả năng nhậy cảm tinh thần, và tập có lòng dửng dưng thiêng liêng. Tánh này sẽ làm thay đổi hay chuyển phản ứng tình cảm đôi khi quá dữ dội thành óc sáng suốt, điềm tĩnh, thông cảm, từ tâm, mà do việc đồng hóa với linh hồn của người chúng ta muốn giúp, chuyện đương nhiên xẩy ra là nó sẽ trợ lực cho phàm ngã đang đau khổ.
Vì sao ta được khuyên tập tánh dửng dưng thiêng liêng ? Ấy là khi muốn giúp đỡ và cứu vớt người khác, ta cần phải học nhờ cảm xúc mạnh mẽ rằng tình cảm và cảm xúc chỉ là phương tiện vô ích nếu muốn cứu vớt họ. Tánh dửng dưng thiêng liêng khiến cho ta được tự do phụng sự mà không bị vướng mắc bởi phản ứng của phàm ngã (như vị tăng bế thiếu nữ qua suối, đặt cô xuống bờ bên kia, rồi thản nhiên đi tiếp lòng không xao động vấn vương), vì các phản ứng này là từ huyệt đan điền mà ra, và công việc phải làm là chuyển năng lực từ huyệt này lên huyệt tim, biểu lộ ra như là tình thương sáng suốt.
Có khi tính nhậy cảm tâm linh là chuyện tự nhiên, nó tạo nên môi trường mà người ta phải học cách làm việc tự do trong đó, không bị nó chi phối. Nó không phải là điều cho ta tránh né, tìm cách thoát ra, mà nó là một phần của thế giới và người ta phải học cách làm việc trong đó mà hoàn toàn tách biệt với nó, giống như ta không đồng hóa với hiện tượng mưa hay nắng ở cõi trần.
Ảo ảnh cao là mục tiêu mà ai ở mức tâm linh thấp phải hướng tới, và chuyển hóa hay nâng cao, thăng hoa từ thấp sang cao là sao ? Lấy thí dụ ai đó có ảo ảnh về lòng ham muốn ích kỷ và mục đích vật chất, sẽ thực sự có bước tiến khi họ thoát khỏi ảo ảnh đó và bước vào ảo ảnh khác cao hơn, là lòng hiến dâng (tức lòng ham muốn nay được thăng hoa) cho một vị thầy. Ta gọi đó là ảo ảnh vì bậc thầy chân thực mỗi người đều có, và nên hướng lòng hiến dâng tới, là Chân ngã của mình; cũng như vị thầy chân thực bên ngoài sẽ khuyến khích điều ấy mà không đòi hỏi chính họ được sùng mộ.

Quyền Năng và Tâm Thức

Với ba mẫu chủng đang hiện diện trên địa cầu, ta có ba loại tâm thức tương ứng.
– Tâm thức Lemuria (mẫu chủng 3) liên quan chính đến cõi trần
– Tâm thức Atlantis (mẫu chủng 4) - cõi trung giới
– Tâm thức Aryan (mẫu chủng 5) - cõi trí
Khi một người có bài học trong kiếp này là mở mang cái trí, mà thay vào đó lại ham mê có phát triển những quyền năng thấp thuộc cõi trung giới, chẳng những việc ấy đưa tới chuyện nguy hiểm và sai lầm, mà còn làm trì hoãn sự tiến bước của họ trên đường tiến hóa, làm năng lực bị chuyển hướng vào chuyện không cần thiết và họ bị chia trí.
Có việc ấy phần nào vì đó là đường dễ dàng nhất trong lúc này, vì trong ba thể (xác, tình cảm và trí) thể tình cảm được phát triển mạnh hơn hết nơi con người hiện nay. Kết quả là những quyền năng thấp bắt đầu làm chủ khi ta tập luyện để có chúng, mà như vậy thực tại là con người quay ngược về việc có ý thức và lối sinh hoạt - tuy bình thường và đúng cho thời Alantis - nhưng bất hảo và không cần thiết vào thời đại chúng ta.
Những quyền năng ấy mở ra cho ai có chúng thấy hiện tượng ở cõi trung giới, và họ xem đó là chuyện đáng ao ước và là sự phát triển tuyệt vời về tinh thần nơi mình. Cái trí được kích thích khi nó hướng xuống dưới vào cõi tình cảm, làm gợi lại, khơi dậy trở lại phản ứng tích cực của quyền năng thấp. Đó là sự khám phá trở lại việc kiểm soát có ý thức các hoạt động của cơ thể (mà nay thành tự động không cần ta ý thức thí dụ nhịp tim), là kết quả theo vài phép tập Hatha yoga.
Việc kiểm soát có ý thức là dấu hiệu đáng nói hồi lúc đầu của giống dân Lemuria, nhưng theo với thời gian, hoạt động của những cơ quan trong cơ thể đã chìm sâu dưới mức ý thức một cách an toàn và đúng như mong ước; cơ thể tự động làm chuyện của nó một cách vô thức ngoại trừ khi có bệnh hay xáo trộn gì khác. Giống dân Aryan không được ấn định là sinh hoạt có ý thức ở mặt nào đã quên, như không còn ý thức nhịp tim đập, khác với hai giống dân Lemuria và Atlantis.
Ai do quyền năng thấp khám phá chuyện trong ba cõi, nhất là cõi trung giới, trên thực tế là làm hai việc sau.
1. Anh tương đối dậm chân tại chỗ và không tiến bước lên chặng cao hơn, vì mê mẩn nhìn ngắm bao hiện tượng lôi cuốn ở cõi trung giới. Anh có thể không tích cực sinh hoạt ở đó hay chủ ý hòa mình vào đó, nhưng nó tạm thời làm thỏa mãn sự chú ý của anh về mặt trí tuệ và tình cảm, gợi nên lòng hiếu kỳ. Như thế, anh phí thì giờ và liên tục bao quanh mình những lớp hình tư tưởng mới, là kết quả của tư tưởng anh về điều gì nghe hay thấy.
Có quan tâm thông minh về thế giới huyễn tưởng, ảo mộng là chuyện đòi hỏi nơi tất cả của chí nguyện khôn ngoan, để họ có thể giải thoát mình khỏi sức thu hút của nó, và nếu không nhờ vậy họ không thể nào hiểu và làm chủ được chúng. Nhưng việc sinh hoạt lâu dài trong cảnh sống nơi đó, và hoàn toàn mê mải với hiện tượng chỗ ấy thì nguy hiểm và cầm giữ họ.
2. Sự chú ý vào chuyện ở cõi trung giới làm cho con người:
– Thành hoàn toàn bị nó mê hoặc.
– Phản ứng một cách nhậy cảm với hiện tượng ở cõi này, và thường là cảm thấy khoái lạc và hân hoan.
– Đi xuống (theo nghĩa bóng) tới mức của nó.
– Gợi lại khả năng khi xưa là thông nhãn thông nhĩ.
– Trở thành những người có nhậy cảm tâm linh mức thấp, và chấp nhận tất cả những gì mà quyền năng tâm linh thấp phơi bầy cho anh thấy.
Ta ngưng ở đây một chút để vạch ra hai điểm nên biết.
● Đầu tiên là nhiều người lúc này có mức thức tỉnh của giống dân Atlantis, có tâm thức Atlantis và đối với họ, việc biểu lộ các quyền năng thấp này là chuyện bình thường tuy bất hảo. Còn với ai thuộc loại có lý trí mạnh và ai đang dần chế ngự phần tâm linh thấp, những quyền năng này lại là chuyện bất bình thường và rất là bất hảo. Mẫu người nói ở đây là người chí nguyện mà không phải là người có tâm thức Atlantis; nếu họ phát triển tâm thức của mẫu chủng trước, và quay trở lại mức phát triển thấp hơn (mà lẽ ra họ phải để lại sau lưng) thì đó là điều nguy hiểm và sự thụt lui.
● Thứ hai, khi một ai có hướng tâm vững vàng ở cõi trí, khi anh tiếp xúc được phần nào với linh hồn, và khi trọn định hướng của anh là về thế giới của những thực tại tinh thần, và đời sống của anh theo kỷ luật và phụng sự, thì có những lúc và khi cần, anh có thể tự ý dùng những quyền năng tâm linh thấp này để làm việc cho Thiên cơ, và để làm việc đặc biệt nào đó ở cõi trung giới. Đây là trường hợp tâm thức lớn bao trùm tâm thức nhỏ hơn.
Dầu vậy cách này ít khi được dùng ngay cả cho bậc đạo sư, vì những quyền năng của linh hồn:
– Cảm nhận tinh thần,
– Viễn cảm, và
– Khả năng linh thị - psychometry
thường là đủ so với đòi hỏi và nhu cầu phải đáp ứng. Ta nêu ra việc ấy vì có những người đã giác ngộ dùng các quyền năng này, nhưng luôn luôn cho việc của Thiên đoàn và nhân loại, và không có liên hệ mặt nào với chuyện cá nhân.
Khi ai đi lạc vào các ngõ ngách của cõi trung giới, rời bỏ thăng bằng của lý trí và cõi cao nói theo nghĩa bóng, khi họ đắm say với ảo mộng và huyễn tưởng (thường là bị mê hoặc một cách thành thực và có chủ ý tốt), và khi họ có lại thói quen cũ như thông nhãn, thông nhĩ, do áp dụng lầm kích thích và thử nghiệm lầm, thì họ phải làm gì, hay phải làm gì cho họ để chỉnh lại tình trạng ?
Có người gặp chuyên gia tâm lý, tâm thần, vào bệnh viện tâm thần vì thấy hay nghe điều khác lạ. Vài gợi ý là:
– Thói quen cũ phải được loại bỏ, nhưng bởi vì chúng cổ xưa nên rất mạnh và bỏ không dễ.
– Việc luyện tập làm sinh ra quyền năng thấp phải được ngưng lại và bỏ luôn.
– Nếu các khả năng liên quan đến cõi trung giới tự nhiên mà có không gặp chút khó khăn nào, ta cũng vẫn phải ngưng lại, và đóng cửa những lối nào dẫn tới hiện tượng thuộc cõi thấp này.
Đề nghị căn bản cho trường hợp có quyền năng thấp gồm ba việc.
1. Chỉ dẫn. Có giải thích cẩn thận về cách đáp ứng của con người cho ai gặp khó khăn, và giảng giải sự phân biệt rõ ràng giữa ba loại tâm thức Lemuria, Atlantis và Aryan.
2. Tùy theo mẫu người mà giúp họ chú tâm, hướng vào cõi trần (loại tâm thức Lemuria) hay cõi trí (tâm thức Aryan), và như thế làm nó không còn trụ vào cõi tình cảm.
3. Có sắp đặt để tùy theo mẫu người mà có bận rộn ở cõi trần hay cõi trí, người ta bị buộc phải làm cho mình bận rộn theo một cách nào đó.

Khai Mở Quyền Năng

Có nhiều ý kiến khác biệt về quyền năng tâm linh, hoặc cho đó là trở ngại cho sự phát triển thực sự về mặt tinh thần, hoặc xem chúng là dấu hiệu của ơn phước thiêng liêng, là bằng chứng cho nỗ lực của một người, nên có lẽ bàn đôi chút về các quyền năng này, vị trí đúng thực của chúng trên đường phát triển, sự phân biệt giữa hai loại là quyền năng cao và thấp sẽ giúp người đọc hiểu rõ chúng hơn.
Điểm chính ở đây là sự phát triển tính ‘bao hàm - inclusiveness’, là một tính cách nổi bật của linh hồn, hoặc đó là linh hồn con người, hay linh hồn thế giới. Tính bao hàm này dẫn tới sự tổng hợp, và là điều thấy rõ ràng, xác định trong con người, vì con người chứa đựng trong bản chất của mình mọi thành quả đạt được trong những chu kỳ tiến hóa trước (gồm các loài khác trong thiên nhiên và những kiếp người đã qua của họ), cộng thêm tiềm năng có sự bao hàm rộng lớn hơn nữa trong tương lai.
Con người là đại vũ trụ của những tiểu vũ trụ, họ có những thành đạt và đặc tính của những loài khác trong thiên nhiên và các tính chất tạo nên khả năng của  tâm thức; rồi tới phiên con người nằm bên trong và là một phần của một đại vũ trụ to lớn hơn nữa, và họ phải ngày càng ý thức về cái Tổng Thể rộng lớn hơn đó. Lại nữa, con người có khả năng bao hàm nhiều phía, giống như một đường từ tâm vòng tròn có thể kéo ra đến bất cứ điểm nào trên chu vi của vòng. Khi con người chỉ hơn con vật một chút, có tâm thức Lemuria là mẫu chủng thứ ba, và vào giai đoạn  đầu của tâm thức Atlantis là mẫu chủng thứ tư, trí năng chưa phát triển, họ sống không suy nghĩ, cuộc sống trôi đi trước mặt họ như một màn phim vĩ đại, họ đồng hóa mình với cảnh trí mô tả và không biết có khác biệt gì giữa họ với phim đang chiếu. Họ chỉ nhìn cảnh vật, đóng vai trò nhỏ bé của mình, ăn, ngủ, sinh con, phản ứng với vui buồn, đau khổ, và không hề hay ít khi suy nghĩ hoặc suy gẫm.
Rồi tới giai đoạn mà ai cũng quen thuộc, trong đó con người thành tâm điểm của vũ trụ của mình, sống, thương yêu, biết đặt kế hoạch, ý thức về người và cảnh ngộ chung quanh, và biểu lộ tới hết mức của mình những đặc tính ở giai đoạn sau của mẫu chủng Atlantis và mẫu chủng Aryan bây giờ. Cái tôi ngày càng phát triển tròn đầy hơn, và bởi lý trí làm chủ hay bắt đầu làm chủ, những khả năng thấp gần loài vật và nét tâm linh của mẫu chủng Atlantis làm phân biệt họ với người khác bắt đầu phai mờ dần. Họ mất đi những quyền năng thấp mà chưa làm nẩy nở những quyền năng cao. Do vậy có phản ứng ta thấy ngày nay là ai dùng lý trí, thông minh thẳng tay bài bác những quyền năng thấp như thông nhãn, thông nhĩ.
Kế tiếp là giai đoạn thần bí, trong đó ai tiến hơn và người chí nguyện, người đệ tử dần dần ý thức về một cõi khác trong thiên nhiên mà họ cần làm chủ, là nước Trời hay cõi tinh thần với sự sống và hiện tượng riêng của nó. Họ ghi nhận các quyền năng mà họ có thể phát triển và sử dụng nếu muốn, và sẵn sàng trả giá để thụ đắc; họ nhận ra một cảnh sống khác rộng lớn hơn mà họ có thể đem vào tâm thức.
Ý ta muốn nói tới là có hai loạt quyền năng tiềm ẩn trong con người, cái thấp họ có thể khơi trở lại nếu muốn, và cái cao hơn có thể tập để sở đắc. Đó là:
– Những quyền năng và khả năng thấp cổ xưa mà nhân loại đã phát triển và có được khi trước, nayvùi chôn sâu trong tiềm thức, không còn ý niệm về chúng nữa, hầu cho ta mở mang trí năng để chế ngự và có cái tôi.
– Những quyền năng và khả năng cao hơn là tính chất của linh hồn. Đây là những quyền năng mà đức Chúa hứa với các đệ tử của ngài, là ngày kia họ sẽ làm được những điều to tát hơn ngài đã làm.
Ta nên nhớ rằng tất cả của quyền năng tâm linh đều là quyền năng, khả năng, quan năng của Đại Hồn mà trong không gian và thời gian, vài cái là biểu lộ của tâm thức hay linh hồn loài vật, cái khác của linh hồn con người, và cái khác nữa thuộc linh hồn thiêng liêng. Áp dụng luật ‘Trên sao, Dưới vậy’ hay Tương Đồng trong vũ trụ vào sự tiến hóa của tâm thức, có bốn điểm sau đáng chú ý.
● Ấy là bản năng khi phát triển ở loài vật, loài người và thiêng liêng thì thực ra là sự mở mang từng chặng đưa tới điều mà ta gọi là tâm thức; trong thực tại đó là sự mở rộng từ từ khả năng ý thức về môi trường chung quanh, bất cứ là gì. Chẳng hạn bản năng bầy nơi loài thú là sự khai mở trứng nước của điều mà trí thông minh về sau gọi là tâm thức nhóm, tức cũng đặc tính ấy mà nay ở nấc cao hơn của vòng tiến hóa xoắn ốc. Sự phát triển cao hơn có được do dùng óc thông minh và có thay đổi động lực thúc đẩy. Ta có thể truy ra cùng ý này trong những bản năng khác.
● Quyền năng tâm linh thấp, nằm sẵn trong thú tính, trong mọi trường hợp là chỉ dấu sơ khởi cho khả năng của linh hồn. Khi hiểu và áp dụng đúng đắn, chúng có thể là con đường trực tiếp dẫn tới vài chuyện khác, nhưng chỉ là ngẫu nhiên và không thể thay thế cho các quyền năng cao.
● Những quyền năng thấp không phải là quyền năng cao nhất có thể có được, và cũng không phải là quyền năng mà nhân loại được ấn định là sẽ thụ đắc, ngoại trừ ở mức thấp nhất trên thang tiến hóa của người, và do vậy sát với loài thú; cũng như khi ở mức cao nhất thì những quyền năng lớn tự động bao hàm cái nhỏ hơn. Con người chia sẻ hay có chung những quyền năng thấp với loài vật - như một số thú vật cũng có thông nhãn  và với tất cả những giống dân nào thấp trên đường tiến hóa của người.
Đây là một sự kiện và lời xác định có thể làm vài người không vui, nhất là với ai hay ca ngợi chúng và thuộc các phong trào về huyền bí học và thông linh học. Họ dễ xem các quyền năng này là chỉ dấu của hoặc mức phát triển tinh thần cao, hay sở hữu điều hiếm và độc đáo; tin rằng ai có chúng thì khôn ngoan hơn, dễ có thể khuyên bảo và chỉ dẫn kẻ khác hơn là người thường.
Thí dụ cho ý kiến này là công chúng tụ lại đông đảo xem ai có khả năng như thế biểu diễn, và sẵn lòng bỏ tiền để ‘xem quẻ’.
● Chót hết, khó khăn của tình trạng gia tăng do việc theo với đà tiến hóa, một số người đã tiến ít nhiều nay khơi lại những khuynh hướng, quan năng thuộc thú tính, vì khả năng bao hàm của họ tăng hơn; họ bắt đầu mở rộng tâm thức nên quá khứ lẫn tương lai được mang vào tầm ý thức của họ. Vì biết rằng mình hướng tới những chuyện cao hơn, tới thế giới thần bí (ngược lại với cõi tâm linh) họ diễn giải vài viễn ảnh mà họ có thể thấy được bằng thông nhãn, như là xẩy ra riêng cho mình mà thôi.
Theo cách ấy, nay khi bắt gặp hình tư tưởng đức Chúa, Phật, các Chân Sư mà dân gian và người chí nguyện đã tạo qua bao thế kỷ, ai nhậy cảm có thể cho rằng ấy là dấu hiệu muốn nói họ được diện kiến và trực tiếp hầu chuyện với các đấng Cao Cả. Thực ra, họ đang bước vào cõi huyễn mộng, ảo ảnh mà tới cuối, họ phải tìm cách thoát ra với nhiều khó khăn.
Sau đây là sơ qua về hai quyền năng khác.

Viễn Cảm – Telepathy

Kể thêm về ba loại quyền năng của thú tính, nhân tính và thiên tính thì khó có đường phân biệt rõ rệt cho một số khả năng, nó cho thấy đề tài này phức tạp và cũng khó trình bầy tường tận. Sự phức tạp này được thấy rõ với khả năng viễn cảm telepathy, còn gọi là thần giao cách cảm.

● Nó là bản năng mà trong tình thế nào đó người ta ghi nhận lời gọi hay ấn tượng đi vào huyệt đan điền. Ta không làm chủ được khả năng nhận ấn tượng, không có việc chủ ý cảm nhận trong trí não một lời nhắn gửi tới, mà chỉ có việc hòa tâm trí hay ở trong tình trạng có liên kết với ai gửi lời nhắn. Trong mười trường hợp thì chín cái là ý kinh hoảng, lo lắng bay đến người nhận, cho ra tác dụng mà người nhận không phải làm gì để gợi có sự tiếp nhận ấy. Thí dụ hay nghe kể là người mẹ cảm thấy bồn chồn, lo âu và hiểu rằng con của mình đang gặp nguy biến. Thí dụ khác là hươu mẹ, hổ mẹ khi phải đi ra xa thì người ta thấy hươu con, hổ con nằm yên trong bụi rậm chờ mẹ về, dường như nhận được lời dặn của mẹ.

● Hoặc là hình thức khác của thông nhãn theo đó người ta có thể thấy điều gì che dấu, như đọc được con số hay hình vẽ của lá bài úp trên bàn.
So sánh thì viễn cảm đúng thực là sự liên lạc trực tiếp bằng trí năng, từ cái trí này sang cái trí kia; ở mức cao hơn nữa thì đó là sự liên lạc từ linh hồn này sang linh hồn kia, giống như việc gợi hứng, dùng cái trí để sắp xếp ý nhận được. Điều lý thú là trong việc ghi nhận loại viễn cảm thực:
a. Vài người nhờ viễn cảm chỉ giản dị ghi nhận ý từ cái trí khác đến trí mình.Việc ghi nhận và liên lạc diễn ra không lời và không có hình thức nào. Người nhận chỉ giản dị ‘biết’, và hiểu biết truyền tới có hình dạng trong tâm thức mà không qua một chặng hay bước trung gian nào. Đây là viễn cảm vô dạng.
b. Người khác khi nhận được hiểu biết thì lập tức hạ nó thấp xuống bằng cách khoác hình dạng cho nó; có nghĩa họ sẽ thấy lời nhắn, chữ hay thông tin hiện trước mặt họ dưới dạng chữ viết tay hay chữ in, làm như hiện trên màn ảnh mà họ thấy trong đầu.
c. Ai khác nữa sẽ hạ thấp thông tin nhận được thành hình dạng khi họ nghe nó.
Trong hai trường hợp sau, con người thật dùng khả năng thấp tiềm ẩn của mình, nâng nó lên tới mức cao có thể được rồi để cho trí năng hay linh hồn sử dụng. Sự khác biệt giữa việc dùng thông nhãn và thông nhĩ theo cách này, là trong hai trường hợp đó có sự làm chủ và hiểu biết của trí năng. Còn trong những trường hợp khác, quyền năng thấp tự động được dùng, không được làm chủ, liên can đến chuyện không có gì quan trọng và ai dùng nó không biết chi hết về cách dùng.

Linh Thị - Psychometry

Khả năng tâm linh biểu lộ tính ‘bao hàm’ rõ nhất là linh thị - psychometry, là khả năng khi cầm một vật thì người ta có thể cảm nhận rồi mô tả những điều liên quan đến vật, chuyện về chủ nhân của nó như biết họ còn sống hay đã chết v.v. Chính yếu thì linh thị của người thuộc nhóm mức thấp là khả năng làm việc và tiếp xúc với linh hồn của nhóm cao hơn. Nó liên quan đến ‘mức’ bao hàm được tới đâu. Thí dụ thì mức này nói đến liên hệ giữa gia súc như chó, mèo với chủ, của một người với nhiều người khác, của người chí nguyện với linh hồn mình, vị Thầy và nhóm của mình.
Khi tính bao hàm của linh thị hướng về thế giới các vật hữu hình như khoáng thạch, vật dụng v.v. người ta gán ý nghĩa huyền bí, tâm linh cho nó và dùng nó để làm tiền. Dầu vậy, khả năng chỉ là một, khi thì hướng về cõi thấp và khi khác thì dùng để tiếp xúc với cõi cao hơn.

Hình Ảnh cõi Trung Giới

Có ba nhóm người dùng quyền năng tâm linh thấp, chủ ý hay vô thức.
– Ai mà mức tiến hóa còn thấp tới độ nó làm quyền năng tự động được dùng. Chuyện hay thấy ở Phi Châu, như viễn cảm được gọi là ‘bush telegraph’. Việc chi xẩy ra ở một nơi thì nơi khác cách xa cũng biết được sau đó không lâu.
– Người mang ra trở lại khả năng thấy và nghe ở cõi trung giới từ một kiếp trước, từ thời Atlantis. Những quyền năng này tự nhiên đối với họ, tuy nhiên họ không hiểu và cũng không làm chủ.
– Khi khác, người có khuynh hướng thần bí khi có ước nguyện mạnh mẽ, hay khi tham thiền đã mang năng lực từ linh hồn xuống, kích thích huyệt đan điền hay huyệt cổ họng, và do đó mở cửa sang cõi trung giới.
Trong cả ba trường hợp, sự việc thuộc về cõi trung giới. Ta có thể nói ở đây là khi nào có mầu sắc, hình thể, và hiện tượng tương tự như, hay là phó bản của chuyện xẩy ra ở cõi trần, thì điều người ta thấy là hiện tượng lập lại ở cõi trung giới; còn khi có việc hiện hình ở cõi trần thì hình ta thấy là do tác động của cõi trung giới và cõi ether. Điều phân biệt và ta cần nhớ kỹ là cõi trí hay cõi của linh hồn không có hiện tượng.
Cõi trung giới là trạng thái có thực, tức tình cảm, mà cũng là thế giới đầy hình bóng huyễn hoặc do con người tạo ra, và do óc tưởng tượng làm việc. Một trong những bài học lớn phải học cho người chí nguyện trên đường, là tập phân biệt giữa điều gì là chân và điều gì là giả.
Mặt khác, khi người có khuynh hướng thần bí có cùng những khả năng này thì hiện tượng mà họ thấy và lời họ nghe được, có thể có phẩm chất rất cao, vì lẽ giản dị là họ sinh hoạt ở những cảnh cao hơn ở cõi trung giới. Dầu vậy chúng vẫn là chuyện ở cõi đó, có tính chất trung giới là huyễn mộng, liên quan đến chuyện gì xẩy ra và hiện tượng ở cảnh cao thuộc cõi này. Họ tiếp xúc với ước vọng tinh thần hay tôn giáo của giống dân, theo với ước nguyện riêng của họ vào lúc ấy, nói khác đi chúng tương ứng với nhau.
Nếu là tín đồ Thiên Chúa giáo nồng nhiệt, họ sẽ thấy được một trong những hình tư tưởng đẹp đẽ và sống động của đức Chúa ở đó, và kinh ngạc bởi khám phá này, lòng yêu mến, óc tưởng tượng và tất cả những gì tốt đẹp nhất trong tâm họ được gợi nên thành lòng kính yêu, tôn sùng rất mực. Đây là nguồn gốc cho những ý tưởng, sách vở được gợi hứng và hình ảnh chói lọi mà nhà thần bí thấy và làm họ ngất ngây. Nếu là người theo Ấn giáo, họ có thể bắt gặp linh ảnh của đức Krishna lộng lẫy; là Phật tử thì họ thấy hình ảnh đức Phật rực rỡ, hay hình tư tưởng các Chân Sư mà người đời tạo nên, nếu họ tìm hiểu về TTH !
Họ còn có thể nghe được lời nói, và chắc dạ 100 % không gì lay chuyển được, là những đấng Cao Cả đã chọn họ để ban đặc ân cho công việc độc đáo; mà trong suốt tất cả những điều này, tâm thức họ vẫn trụ ở cõi trung giới không đi xa hơn, và họ chỉ tiếp xúc với những hiện tượng ở cõi đó, dù tuyệt vời và đầy gợi hứng, thấy được nhờ quan năng bên trong và nghe được do ước nguyện của mình.
Những chuyện này xẩy ra do huyệt đan điền hoạt động quá mức, bị năng lực tràn vào kích thích khi họ tham thiền và lên tới cảnh cao do ước nguyện nồng nàn. Nó cho ra kết quả đầy tình cảm, và phản ứng xẩy ra cùng việc phụng sự sau đó cũng ở mức tình cảm. Sự kiện được thấy ở nhiều bậc thầy hiện nay ở khắp nơi, những vị thầy đó là người chí nguyện chân tình hoặc đã là vậy. Họ tỉnh thức ở những cảnh cao thuộc cõi trung giới, thấy ở đó hình tư tưởng về Thiên đoàn mà nhân gian đã tạo ra bao đời, và nghe lập đi lập những điều mà vô số người chí nguyện đã nói hay suy gẫm từ xa xưa đến nay, tất cả đều là chân, thiện, mỹ. Thế rồi họ đi ra lập nhóm, mở trường, giảng dạy những gì  đã thấy, nghe và học được theo cách đó.
Thường thường họ làm được nhiều chuyện tốt lành ở cõi trung giới, mà tất cả ai như thế lẫn lộn phản ảnh với thực tại, bản sao với bản chính, và điều mà con người tạo nên với điều do thiêng liêng sinh ra. Nhưng ta cũng đừng quên rằng cõi trung giới là nơi cho con người học phân biệt chân lý với sai lầm, điều chân với điều giả. Như vậy, ai bị lầm lẫn thì chỉ là đang học một điều cần học. Sự kiện về cõi trung giới đang dần được nhận thức và ấy là chuyện tốt đẹp. Sự hiện hữu của Thiên đoàn và các Chân Sư đang được quần chúng chú ý, dù rằng việc xẩy ra do những ai lẫn lộn hình phản chiếu và hình tư tưởng với thực tại.

Để Tránh bị Mê Hoặc

Khi biết tình trạng là vậy, ta sẽ tự hỏi làm cách nào để nhà thần bí tránh được sai lầm và lẫn lộn ấy ? Làm sao họ phân biệt được điều chân với điều giả ?
Ấy là vấn đề mà nhà thần bí nào cũng gặp phải, và không có luật rõ ràng, khoa học cho họ theo, hướng dẫn phản ứng của họ. Tuy vậy có vài đề nghị giản dị mà không chắc ai đang rao giảng những điều mà họ tiếp xúc được ở cõi trung giới sẽ vui lòng theo. Quan điểm của trí tuệ mà sẽ giúp nhà thần bí tránh huyễn tưởng cùng sai lạc ở cõi này là:

● Vun trồng tinh thần khiêm tốn thực sự. Có một tánh cao ngạo tinh thần mà giả dạng như là khiêm tốn, và rất thường thấy ngày nay. Nó làm người ta xem mình như là kẻ được chọn của Thiên đoàn để cứu độ thế giới, cho mình là phát ngôn nhân của đức Chúa hay Chân Sư. Tánh ấy có khuynh hướng làm người ta có thái độ chia rẽ với những vị thầy khác, từ chối không chịu nhìn nhận nhiều mặt của một công cuộc chung, và lắm phương pháp mà Thiên Trí đặt ra để đến với khối đông người.

● Từ chối không nhận có tiếp xúc hay thông điệp liên can đến phàm ngã, hay làm người nhận hóa cách biệt tức có khuynh hướng tạo mặc cảm là đấng Cứu thế. Chữ này giản dị mà chính xác, mô tả sống động trạng thái của tâm trí cùng tâm thức tin chắc như bắp của nhiều bậc thầy hiện nay.
Việc tiếp xúc thực sự với Thiên đoàn và lời khen đúng đắn về việc phụng sự, cho ra cùng với nó lòng tin tưởng là có nhiều người phụng sự hiện diện trong công cuộc chung, nhiều sứ giả truyền rao cùng một thông điệp, nhiều vị thấy cho nhiều mặt của Chân Lý, và nhiều cách khác nhau dẫn con người về tâm Thượng đế. Khi ý thức này được nhận ra đi kèm với ý phụng sự thì con người phát triển tính bao hàm, và họ có thể chắc rằng họ thực sự được kêu gọi để hợp tác, và có thể tin linh ảnh mà họ thấy là thực tại (không phải là huyễn mộng).

● Thoát khỏi lôi cuốn của tình cảm. Người chí nguyện thực sự và cũng có xu hướng thần bí luôn hướng về trí năng. Tầm nhìn của họ không vướng mắc vào những phản ứng có tính dối gạt của huyệt đan điền, họ sử dụng các huyệt cao hơn như tình thương làm khơi động huyệt tim, và sự sáng làm huyệt đầu linh hoạt. Về sau họ có thể dùng sức thu hút của tình cảm khi làm việc với quần chúng, nhưng cho chính mình họ giữ không để bất cứ tình cảm nào chi phối.
Sự phát triển các quyền năng tâm linh xẩy ra vào lúc này, do việc người nhậy cảm bắt đầu ý thức về các hiện tượng luôn có đó mà thường không được nhận ra, vì những quan năng bên trong để nhận thức vẫn còn lặng yên chưa được khơi dậy. Nơi người chưa phát triển hay nhóm người thuộc giống dân thấp, cũng như ở thú vật, tất cả có nhiều cảm nhận tâm linh vì huyệt xương thiêng khích động sự sống phàm trần và huyệt đan điền quản trị mặt tâm linh. Trong những trường hợp đó, mọi huyệt cao còn lặng yên và chưa phát triển. Huyệt đan điền là sao đối với các thế giới của cảm nhận tâm linh bậc thấp, thì não bộ có chỗ đứng là vậy trong thế giới của hiểu biết tâm linh bậc cao. Cái trước đóng vai trò là não bộ điều khiển nơi thú vật và người mà chỉ mới thức tỉnh ở cõi trần và cõi tình cảm.
Giữa chặng có đời sống tâm linh thấp và cảm nhận tinh thần của vị đạo đồ, còn có đủ loại tâm thức khác. Nói chung thì ta có thể chia các loại này làm ba nhóm chính.

● Sự khai mở và dùng quyền năng tâm linh, cả thấp lẫn cao.
Đây là giai đoạn Tâm linh - Psychism.
● Việc tiến đến có linh ảnh thần bí.
Đây là giai đoạn Thần Bí - Mysticism.
● Sự tỏ lộ về ánh sáng và quyền năng.
Đây là giai đoạn Huyền Bí học - Occultism.

Giống dân thứ năm Aryan không có chủ đích là phát triển tâm linh, mà đích nhắm của họ là mở mang trí năng vượt trội. Điều này không xẩy ra được nếu lực tuôn vào con người hướng về huyệt đan điền là một đại huyệt, quản trị mọi khai mở tâm linh. Huyệt đan điền ngày kia sẽ cuối cùng phải ngừng làm chủ các sinh hoạt của người, và não bộ phải trở thành nơi điều khiển thay chỗ nó.
Sự phát triển của con người đi qua ba chặng.
– Chặng tâm linh.
– Chặng trí năng.
– Chặng linh hồn làm chủ.
Ở chặng chót các quyền năng tâm linh cao thể hiện, và những quyền năng thấp khi ấy có thể được dùng trở lại nếu thấy nên làm. Bậc đạo đồ làm chủ hoàn toàn mọi quan năng và khả năng, và biết khi nào cùng cách sử dụng chúng có lợi nhất với ít năng lực nhất.
Điều nên ghi nhận là người trung bình có nhậy cảm tâm linh lúc này và người đồng không nằm trong hạng vừa kể, vì bậc đạo đồ và các Chân Sư dùng quyền năng của mình một cách lặng lẽ, đứng đằng sau mà không phải để phô diễn trước công chúng. Đa số người có khả năng tâm linh hiện giờ dùng huyệt đan điền, tuy một số rất ít đang chuyển lực từ đó (huyệt thấp) lên huyệt giữa chân mày (huyệt cao hơn), và phát triển khả năng trí tuệ.
Để làm được chuyện sau thì tạm thời có việc đóng lại hoàn toàn những quyền năng thấp. Chuyện gì được xem là thực và quan trọng. hay lý thú và hào hứng với người trung bình có khả năng tâm linh, sau rốt bị sự mở mang trí tuệ làm chìm sâu xuống dưới mức ý thức. Nhìn cách khác thì đó là sự chuyển tiếp từ tâm thức Atlantis (mẫu chủng thứ tư) sang mức thức tỉnh Aryan và cao hơn (mẫu chủng thứ năm). Nó tượng trưng cho một bước tiến trên đường tiến hóa, và cần nhớ là mỗi bước tiến tới - do vậy đến gần mục tiêu tinh thần hơn - đều phải trả giá qua việc tử bỏ điều chi mà bao lâu nay được quí chuộng.

Kết

Ta chỉ mới tìm hiểu rất sơ qua về những quyền năng tâm linh thấp và cao. Chúng có liên quan mật thiết với, và tùy thuộc vào, sự khai mở các huyệt đạo trong người, nên bạn nào muốn đi sâu hơn thì xin đọc thêm những sách tham khảo. Bởi người ta có thể tập để mở những quyền năng này, nếu nhờ phép luyện hơi thở, một số tư thế mà các vị thầy thiếu hiểu biết dạy làm người ta có tiếp xúc với cõi trung giới và khiến họ sợ hãi muốn thoát, vài chỉ dẫn sau có thể giúp ích:
– Bước đầu tiên là ngừng hết các phép tập luyện, các tư thế ấy, và chấm dứt mọi tiếp xúc với vị thầy.
– Bước kế là sống đời có đầy hoạt động thể chất, không cho họ có giờ hướng nội nghiền ngẫm. Nếu thiên về vật chất thì họ hãy làm tròn phận sự về doanh thương, buôn bán, giao tiếp, trách nhiệm đúng của mình và những sở thích ở cõi trần, với tất cả khả năng mà họ có, khiến không còn nghĩ đến chuyện đã qua.
– Cánh cửa mở sang cõi trung giới phải được đóng lại bằng cách làm chủ tình cảm, vì tình cảm không được kềm chế giữ cho cửa tiếp tục hé mở, và làm dễ dàng có kinh nghiệm cõi trung giới.
Nếu cừa sang cõi trung giới mở là do bẩm sinh, do hoạt động từ những kiếp trước, và lực bình thường tụ vào huyệt đan điền thì chuyện khó hơn. Họ cần có mục tiêu cao hơn cho đời sống, và điểm nhấn mạnh là họ cần sống một đời phụng sự. Phụng sự là phương pháp khoa học mà khi thực hành, lực khơi dậy, khích động và làm chủ huyệt đan điền giờ được chuyển lên huyệt tim (do khai mở tình thương).
Làm sao có việc ấy ? Luật mà ta hay nghe nói ‘năng lực theo sau tư tưởng’ áp dụng ở đây, khi họ chú trọng vào tình thương, có mục tiêu mới trong đời để hướng tâm về thì lực đi vào huyệt tim và bớt tập trung vào huyệt đan điền, cái sau hoạt động giảm đi làm đóng lại cánh cửa. Sự tản lực khiến huyệt không còn là yếu tố chế ngự, và tư tưởng họ nay có tính chất khác.
Sự chuyển lực từ huyệt bên dưới hoành cách mạc, lên huyệt khác tương ứng bên trên hoành cách mạc là diễn tiến khoa học, và ta có việc đóng cửa một số huyệt và mở cửa những huyệt khác. Một điều nữa làm sự việc phức tạp thêm, là với ai có tâm thức Atlantis thì họ sinh hoạt bình thường khi có những khả năng tâm linh, tuy ấy là đi theo đường thoái hóa; nhưng người có tâm thức Aryan mà biểu lộ những khả năng này thì đó là tình trạng bất thường. Chuyện thật lý thú mà cũng đầy bí ẩn, vậy tốt nhất ta nên ngừng ở đây trước khi đi quá xa.
Quay trở lại với HPB và sự liên quan giữa tâm thức và tình trạng các thể trong thí dụ ở đầu bài về nhà Yogi xuất thần, bà nói thêm sự việc cho thấy là ai muốn có hiểu biết siêu hình cần nắm vững tương quan đúng giữa các nguyên lý nơi con người (tiểu vũ trụ) và thiêng liêng (đại vũ trụ). Ai duy vật thường bác bỏ sự hiện hữu của con người bên trong và những quyền năng thiêng liêng của nó; trong khi huyền bí gia có hiểu biết đó, và kinh nghiệm cá nhân cho phép họ xác nhận là các khả năng ấy là chuyện tự nhiên nơi con người, như cá biết bơi vậy. Ai biết khai mở chúng và hòa các làn rung động sẽ đạt được sự hòa hợp thiêng liêng. Việc kết hợp quyền năng với tiểu vũ trụ hòa vào đại vũ trụ là ý nghĩa của chú ngữ Aum Mani Padme Hum. Nói ví von thì các khả năng này tựa như dây đàn chùng trong người của ta. Chúng có đó ở dạng tiềm ẩn không sử dụng được. Tuy nhiên ai biết thuật có thể làm dây đàn căng đúng mức phát ra âm thanh tuyệt vời.

Tham khảo:
- Esoteric Psychology, vol. 2, A.A. Bailey
- The Light of the Soul, A.A. Bailey
- The Sword and the Spirit, H.K. Challoner.
- The Esoteric Papers of Madame Blavatsky, Daniel Caldwell.
Ghi chú: Vài ý ở đây đã được ghi trong các bài trước trên PST.